Tiếng vĩ cầm

20:31 | 09/05/2012

Đã nhiều năm rồi, mỗi khi có ai đó hỏi tôi: thời học sinh phổ thông, điều gì làm tôi nhớ nhất. Không cần phải cân nhắc đắn đo, tôi trả lời luôn: tiếng vĩ cầm! Ô hay, thời chúng tôi học phổ thông là ứng với cuộc chiến tranh phá hoại, thiếu thốn đủ thứ, cắn xén đủ bề, đến cái môn Nga văn, Trung văn đang học dở còn phải bỏ thì đâu đã có chỗ cho môn âm nhạc! Vâng, đúng là ngày ấy chúng tôi chưa được học một nốt nhạc nào...
Tiếng vĩ cầm

     Lê Hoài Nam

     Có lẽ cái lớp 5A, rồi sau này là 6A, 7A thuộc ngôi trường phổ thông cấp hai xã Nghĩa Hiệp (nay là thị trấn Liễu Đề) của chúng tôi gặp may chăng, bởi chúng tôi vẫn thường được nghe tiếng vĩ cầm. Người chơi cây vĩ cầm ấy là thầy Trương Văn Khiên, giáo viên môn toán, kiêm chủ nhiệm lớp tôi. Thầy Khiên chơi được cả phong cầm và vĩ cầm. Nhưng thầy thường mang bên mình cây vĩ cầm. Mọi đồ vật tư trang của thầy đều thô giản, chỉ có cây vĩ cầm là được thầy giữ gìn cẩn trọng. Nó được đặt trong cái hộp gỗ bọc da, lót vải bên trong, có quai xách bên ngoài. Chỉ khi nào chơi, thầy mới lấy đàn ra. Nước véc-ni trên thân đàn lúc nào cũng bóng láng. Công bằng mà nói, ngón đàn của thầy Khiên chưa thể coi là sành điệu. Nhưng với những đứa trẻ nông thôn, vào cái thời mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy cái máy hát, cái máy thu âm tròn méo ra sao, thì tiếng vĩ cầm của thầy Khiên là những tuyệt phẩm, cao sang và huyền nhiệm. Tiết học cuối cùng trong tuần vào chiều thứ bảy, nhà trường thường bố trí môn của giáo viên chủ nhiệm, để rồi khi học xong là họp lớp có giáo viên chủ nhiệm dự luôn thể. Khi họp lớp, thầy Khiên thường khen những đứa có nhiều việc tốt, chê những đứa có những việc dở, nhưng bao giờ trước lúc cuộc họp kết thúc thầy cũng bảo: “Nói chung tuần qua, lớp ta  tuy có khuyết điểm, nhưng thầy tin các em sẽ sửa chữa được. Ưu điểm của các em mới là nổi trội. Thầy muốn chơi mấy bản nhạc thay cho lời chúc mừng các em…”. Thế  là cả lớp hưởng ứng bằng một tràng pháo tay kéo dài. Thầy mở hộp lấy cây vĩ cầm, nâng lên tì vào vai trái. Tay phải thầy cầm cây ác-xê bắt đầu kéo. Thầy chơi bài Lới lơ, Hoa thơm bướm lượn, bài Lý cây đa, Lý con sáo, Lý kéo chài…Bài nào thầy cũng chơi một cách say mê như người nhập đồng, như gửi cả hồn vía vào bản nhạc. Còn chúng tôi, mặt đứa nào cũng tỏ vẻ hân hoan, mắt nhìn chăm chắm vào cây đàn và đôi tay thầy, cảm thấy như ở đó có phép mầu nhiệm. Phòng học làm theo kiểu nửa hầm nửa nhà tối om, nhưng lúc này chúng tôi có cảm giác nó sáng bừng lên nhờ tiếng đàn. Cây vối bên bờ ao trước cửa sổ lớp học như cũng biết toả hương thơm nhờ tiếng đàn.

     Có một đứa con gái từ thành phố sơ tán về mới xin vào học lớp tôi. Những ngày đầu đến lớp gương mặt xinh đẹp của nó trông rất ủ dột. Hỏi ra thì biết nó nhớ thành phố. Nó nói thẳng thừng rằng nó không sao chịu được cuộc sống buồn tẻ ở đây. Nhưng sau cái hôm được nghe thầy Khiên chơi đàn, nó liền nói ngược lại, rằng nó bắt đầu thấy yêu thôn quê nhờ những bản nhạc đó. Sáng thứ hai tuần sau đi học trên con đường tắt ngang cánh đồng, qua khu nghĩa địa cổ nhìn thấy những khóm hoa dùng dành, nó rẽ vào ngắt những chùm hoa đẹp nhất, cuốn thành một bó, rồi cứ thế ôm đến lớp. Chúng tôi chưa kịp can ngăn thì nó đã ôm bó hoa bước lên bục giảng trao vào tay thầy Khiên. Nó nói: “ Em tặng thầy. Những bông hoa của đồng quê toả hương thơm ngát thầy ạ. Cám ơn thầy đã kéo đàn cho chúng em nghe những bản nhạc hay thật là hay!”. Thầy Khiên tỏ ra rất vui khi nhận bó hoa của nó. Còn chúng tôi thì ngược lại, rất lấy làm lo cho nó. Bởi vì dùng dành là loài hoa  nở quanh năm, mùi thơm tinh khiết và hoang dã, sức sống của cây rất dai dẳng, nên người quê tôi thường trồng nó trên những nấm mộ, vừa làm hoa dâng cúng vừa đánh dấu khỏi nhầm với mộ người khác. Chờ lúc ra chơi, chúng tôi xúm đến mắng con bé té tát: “Đồ hâm! Nếu thầy phát hiện ra mày hái hoa của người chết tặng thầy, thầy sẽ nghĩ sao?”. Con bé giật mình, mặt tái đi. Nhưng lạ thay, nó không tỏ ra một chút bối rối. Đúng là người thành phố có khác! Ngay cả cách nó sửa sai cũng rất “hoành tráng”. Chờ cho hết giờ ra chơi bắt đầu vào tiết thư hai, nó điềm nhiên bước lên bục giảng, khoanh tay cúi đầu trước thầy, nói: “Thưa thầy, em mới từ thành phố sơ tán về, chưa hiểu lắm những loài hoa của đồng quê. Bó hoa dùng dành lúc nãy tặng thầy là em hái trên một ngôi mộ, nhưng em lại cứ tưởng chỗ đó chỉ là bãi cỏ. Em xin lỗi thầy!”. Cả lớp lặng phắc, nín thở, chờ một cú trừng phạt từ thầy chủ nhiệm. Nhưng kìa, đã không mắng mỏ gì, thầy Khiên còn đưa một bàn tay vuốt mái tóc con bé. Thầy bảo: “Hoa gì, nó mọc ở đâu, không quan trọng. Thầy cảm nhận được tấm lòng thành ở em, đó mới là điều đáng nói nhất. Cám ơn em!”. Cả lớp vỡ nhẽ, ngộ ra một điều gì đó khá hệ trọng trong giọng nói của thầy.

     Thầy Khiên dạy học ở huyện Nghĩa Hưng thêm mấy năm nữa thì chiến tranh kết thúc. Đã có thời kỳ thầy được bổ nhiệm cương vị hiệu trưởng. Hoà bình, thầy được điều động lên thành phố bổ sung vào ban lãnh đạo Nhà văn hoá thiếu nhi, phụ trách đội ca nhạc Vàng Anh. Hồi ấy, miền bắc có ba đội ca nhạc thiếu nhi rất nổi tiếng: đội Sơn Ca của Hà Nội, đội Hoạ Mi của Hải Phòng và đội Vàng Anh của Nam Định. Được làm thầy giáo của đội Vàng Anh, đúng sở trường, thầy Khiên có tâm trạng lâng lâng như cá gặp nước. Thầy hiến dâng hết mình. Ngoài việc dạy nhạc, dạy đàn, luyện thanh cho học sinh, thầy còn chạy vạy xin xỏ, mua sắm nhiều trang thiết bị cho cơ quan. Những cây dương cầm, phong cầm, ghi ta, kèn clarilet và một dàn vĩ cầm mới được bổ xung là có công của thầy. Thầy Khiên còn nhờ vả chỗ quen thân mua thanh lý được một chiếc ô tô chở khách cũ mang về đại tu, chuyên dùng chở đội Vàng Anh đi biểu diễn. Vào dịp nghỉ hè, nghỉ lễ, nghỉ tết đội Vàng Anh lại càng bận rộn, họ  mang vác nhạc cụ lên xe đi biểu diễn khắp nơi. Đến đâu họ cũng được công chúng nồng nhiệt đón nhận, mến mộ.

     Nhưng rồi, số phận thầy Khiên rất ứng nghiệm với câu thơ nổi tiếng của thi hào Nguyễn Du: Chữ tài liền với chữ tai một vần! Một lần đưa đội Vàng Anh đi biểu diễn trong miền Nam, nể lời người quen, thầy Khiên cho một người  đi nhờ xe. Người này mang theo mấy bao thuốc nam. Xe đang chạy qua miền trung nóng như thiêu đốt, mấy bao thuốc bỗng dưng bốc lửa. May mà thầy Khiên kịp đưa hết học sinh trong đội xuống xe trước khi nó bốc cháy. Cho dù thế, thầy Khiên vẫn phải nhận một cái án kỷ luật khá nặng, để rồi sau đấy ít lâu thầy phải rời khỏi đội Vàng Anh và Nhà văn hoá thiếu nhi vĩnh viễn. Thầy như con cá bị vớt lên khỏi nước. Thầy trở thành kẻ “vô dụng” từ đó. Đôi lúc nhớ đội Vàng Anh thầy lại mượn rượu, thuốc lá để giải sầu. Tên tuổi thầy mờ nhạt dần trong trí nhớ của mọi người.

     Cho đến những năm gần đây, khi tuổi thầy Khiên đã ngấp nghé thất tuần, lãnh đạo Hội cựu giáo chức thành phố Nam Định cảm thấy nuối tiếc chút khả năng âm nhạc của thầy, họ thành lập Chi hội cựu giáo chức văn nghệ sĩ rồi mời thầy làm chi hội trưởng. Có đất dụng võ, thầy Khiên lại nổi máu văn nghệ, hoạt động rất hăng say. Thầy hướng dẫn cho các cựu giáo chức cách luyện từng loại giọng ca, từng ngón đàn. Kể từ đó, mỗi khi Hội cựu giáo chức thành phố  họp hành, đi giao lưu, tham quan du lịch, đều kéo cái Chi hội cựu giáo chức nghệ sĩ này đi cùng. Và đi đến đâu là lời ca tiếng hát vang lừng đến đó. Vui thật là vui. Một liều thuốc kéo dài tuổi thọ hữu hiệu.

     Dịp Quốc Khánh năm 2011 này, chị Thanh Hà, một giọng đơn ca, một cây sôlít sáng danh của đội Vàng Anh năm xưa bấm điện thoại từ Nam Định gọi lên Hà Nội cho tôi, nói: “ Thầy Trương Văn Khiên mang bệnh trọng, đã ở giai đoạn cuối. Thầy chỉ muốn gặp em…”. Tôi vội đáp xe về Nam Định. Cô Thăng, hiền thê của thầy đón tôi trước cửa. Cô bảo: “Hôm nay thầy mệt lắm, nhưng cứ tỉnh lúc nào lại nhắc đến em”. Tôi tự hỏi: một kẻ viết văn quèn như mình mà quan trọng với thầy đến thế sao? Tôi theo cô Thăng vào phòng thầy. Nhìn thầy gầy còm, thân thể mỏng dính, nằm co quắp trên giường, cố kìm cảm xúc mà tôi vẫn bật khóc. Thầy Khiên cứ quờ quạng tìm nắm lấy tay tôi như cố bấu víu một chút sự sống. Giọng thầy phều phào: “…Thầy rất hân hạnh được là người dậy em những năm phổ thông. Thời gian càng lùi xa, thầy càng thấy những năm tháng dậy học ở quê em là có ý nghĩa nhất trong cuộc đời dậy học của thầy. Hôm nay em về, thầy có thể yên tâm nhắm mắt được rồi…”. Tôi cứ ngắm gương mặt rất đàn ông và cũng rất nghệ sĩ của thầy, dù hai mắt còn nhoè lệ, nhưng miệng tôi lại bật ra tiếng hát: Trường em mái ngói đỏ tươi/ Bên dòng sông nước xanh hiền hoà/ Hàng dừa soi bóng lung linh/ Nhìn trời xanh bồ câu tung cánh/ Vi vút tiếng nhạc phi lao/ Bay xa tận ra ngoài biển đông…Đó là bài Trường em do chính thầy Khiên sáng tác và dàn dựng cho lớp tôi, cái lớp 5A thời đó, thầy trực tiếp đệm đàn vĩ cầm, đi thi thố đấu đá với các trường trong huyện được giải rất cao. Cho đến nay, tôi vẫn chưa quên một câu nào trong bài hát ấy.

        Hà Nội, tháng 9 năm 2011

BACK TO PREVIOUS PAGE
Member Register